Lịch sử hoạt động U-19_(tàu_ngầm_Đức)_(1935)

U-19 đã đảm nhiệm vai trò tàu huấn luyện tại các trường tàu ngầm Đức. Được huy động do tình trạng thiếu hụt tàu ngầm sau khi xung đột bùng nổ, nó thực hiện được chín chuyến tuần tra tại khu vực Bắc Hải và chung quanh quần đảo Anh. Trong các chuyến tuần tra thứ nhất, thứ hai và thứ ba từ 25 tháng 8 đến 7 tháng 11, 1939, nó hoạt động tại Bắc Hải, rải thủy lôi đánh chìm được ba tàu buôn. Trong hai chuyến tiếp theo từ 14 tháng 11, 1939 đến 12 tháng 1, 1940, nó đánh chìm thêm hai tàu buôn, rồi thêm hai chiếc nữa trong chuyến thứ sáu vào ngày 23 tháng 1. Một tàu hộ tống Anh đã thả mìn sâu tấn công nó vào ngày 21 tháng 2 ngoài khơi đảo Nam Ronaldsay thuộc quần đảo Orkney, khiến nó bị hư hại nhẹ.[2] Chiếc tàu ngầm đánh chìm thêm bốn tàu buôn nữa trong chuyến tuần tra thứ tám vào các ngày 19 tháng 320 tháng 3.[2]

Vào ngày 1 tháng 5, 1940, U-19 được rút khỏi nhiệm vụ tác chiến để quay trở lại vai trò huấn luyện. Khi được điều động sang Chi hạm đội U-boat 30 vào ngày 1 tháng 5, 1942, chiếc tàu ngầm được tháo dỡ, vận chuyển dọc theo sông Danube đến cảng Galați của România. Tại đây nó được lắp ráp lại tại Xưởng tàu Galați và gửi đến Hắc Hải.[5] U-19 đi đến cảng Constanța của România vào ngày 21 tháng 1, 1943, nơi đặt căn cứ cho đến hết quãng đời hoạt động,[6] và thực hiện thêm 11 chuyến tuần tra chiến tranh tại khu vực Hắc Hải.[2]

Vào ngày 13 tháng 2, 1943, U-19 bị bốn máy bay tấn công ngoài khơi Gelendzhik, thả hai quả mìn sâu, và gây ra những hư hại nhẹ.[2] Nó đánh chìm tàu buôn Liên Xô Barzha vào ngày 27 tháng 6, 1944, và tàu quét mìn Liên Xô BTSC-410 Vzryv (số 25) vào ngày 2 tháng 9, 1944.

Sau khi România chuyển sang gia nhập Khối Đồng Minh, U-19 bị mất căn cứ hoạt động, và không thể quay trở về Đức vì các eo biển BosphorusDardanelles do Thổ Nhĩ Kỳ trung lập kiểm soát. Để tránh bị lọt vào tay lực lượng Liên Xô, nó cùng các tàu ngầm chị em U-20U-23 được lệnh tự đánh đắm tàu tại vùng biển Hắc Hải về phía Bắc Zonguldak, Thổ Nhĩ Kỳ vào ngày 10 tháng 9, 1944, tại tọa độ 41°34′B 31°50′Đ / 41,567°B 31,833°Đ / 41.567; 31.833.[7][8][9][2]

Tóm tắt chiến công

U-19 đã đánh chìm 14 tàu buôn đối phương tải trọng 35.430 gross register tons (GRT) cùng một tàu chiến tải trọng 441 tấn:

NgàyTên tàuQuốc tịchTải trọng[Ghi chú 1]Số phận[3]
21 tháng 10, 1939Capitaine Edmond Laborie Pháp3.087Bị đánh chìm (mìn)
21 tháng 10, 1939Deodata Na Uy3.295Bị đánh chìm (mìn)
24 tháng 10, 1939Konstantinos Hadjiperas Hy Lạp5.962Bị đánh chìm (mìn)
18 tháng 11, 1939Carica Milica Yugoslavia6.371Bị đánh chìm (mìn)
9 tháng 1, 1940Manx Na Uy1.343Bị đánh chìm
23 tháng 1, 1940Battanglia Anh Quốc1.523Bị đánh chìm
23 tháng 1, 1940Pluto Đan Mạch1.598Bị đánh chìm
25 tháng 1, 1940Everene Latvia4.434Bị đánh chìm
25 tháng 1, 1940Gudveig Đan Mạch1.300Bị đánh chìm
19 tháng 3, 1940Charkow Đan Mạch1.026Bị đánh chìm
19 tháng 3, 1940Minsk Đan Mạch1.229Bị đánh chìm
20 tháng 3, 1940Bothal Đan Mạch2.109Bị đánh chìm
20 tháng 3, 1940Viking Đan Mạch1.153Bị đánh chìm
27 tháng 6, 1944Barzha Liên Xô1.000Bị đánh chìm
2 tháng 9, 1944BTSC-410 Vzryv (số 25) Hải quân Liên Xô441Bị đánh chìm